
Năm 1009, Lê Ngọa Triều chết, kết thúc hai triều đại ngắn ngủi là Đinh và Tiền Lê. Lý Công Uẩn được giới tăng lữ và triều thần vận động lên làm vua, lấy hiệu là Lý Thái Tổ, mở đầu nhà Lý kéo dài hơn 200 năm.
Năm 1010, ngay sau khi lên ngôi chưa đầy 1 năm, Lý Thái Tổ viết “Chiếu dời đô” để dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Đại La (Hà Nội). Sau khi dời về Đại La, một lần nữa ông đổi tên địa điểm này thành Thăng Long, kinh đô của nước Đại Việt, chính là Hà Nội ngày nay.

Trong chương trình học trung học của Việt Nam, tác phẩm Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn được đưa vào môn ngữ văn của lớp học thứ 8 (bậc phổ thông 12 năm).
Ông vua Lý Công Uẩn nổi tiếng là một nhà vua thông minh, nhân ái, định hướng đúng cho sự phát triển bền vững, lâu dài của đất nước trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Chiếu là một loại văn bản cổ, nội dung thông báo một quyết định hay một mệnh lệnh nào đó của vua chúa cho thần dân biết. Chiếu dời đô đặc biệt thể hiện một tư tưởng lớn lao, mang tính chất phủ dụ nhiều hơn là mệnh lệnh. Ngôn ngữ bài chiếu vừa là ngôn ngữ hành chính. vừa là ngôn ngữ đối thoại. Chiếu được viết bằng tản văn, chữ Hán, gọi là cổ thể; từ đời Đường (Trung Hoa) mới theo lối tứ lục gọi là cận thể (thể gần đây). Chiếu nêu lên những dẫn chứng, những cơ sở để làm tiền đề cho việc dời đô của mình.

Lý Công Uẩn dẫn ra hàng loạt sự dời đô của những vị vua bên Trung Quốc. Vào mỗi thời, kinh đô phải chuyển đến một địa điểm mới. Năm lần dời đô: Vua Thang (Thành Thang) đóng đô ở phía đông nam huyện Thương Khâu (thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc bây giờ). Trọng Đinh dời đô đến huyện Thành Cao (thuộc tỉnh Hà Nam). Hà Đản Giáp đời đô đến phủ Chương Đức (cũng thuộc tỉnh Hà Nam). Tổ Ất dời đô đến phủ Thuận Đức (tỉnh Sơn Tây bây giờ). Bàn Canh dời đô đến huyện Yên Sư (hay Ân Sư thuộc tỉnh Hà Nam). 3 lần dời đô: Chu Văn Vương đóng đô ở phía đông tỉnh Thiểm Tây. Chu Vũ vương dời đô đến huyện Tương Yên (tỉnh Thiểm Tây). Chu Thành vương dời đô đến huyện Lạc Dương (tỉnh Hà Nam). Thời Tam Đại: Ba nhà Hạ, Thương, Chu trong lịch sử Trung Quốc. Nói tóm lại, chọn đất làm kinh đô vô cùng khó khăn, phải các bậc trí thức quý tộc lâu đời mới làm được. Từ cổ chí kim việc dời đô là một việc làm thường xuyên của các nhà vua, cốt là để tìm cho hoàng cung một chỗ phù hợp.
Mọi kinh đô, đến thời mạt vận, phải nhường chỗ cho kinh đô mới: “Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi”.
Vua Lý nói rằng các vua Đinh và Tiền Lê đã không nghe theo ý trời nên triều đại không được lâu dài. Bên Tàu, nhà Thương, nhà Chu trường tồn vì biết dời đô. Những người yêu sử Việt không khỏi đau xót khi chứng kiến vận số ngắn ngủi của nhà Đinh, nhà Lê.
Đại La vào đương thời hội tụ đủ mọi điều kiện để phát triển đất nước: “Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: Ở vào nơi trung tâm trời đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây; lại tiện hưởng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi.”
Đại La hiện lên đẹp về mọi mặt như địa lý, văn hóa, đầu mối giao lưu, điều kiện của dân cư và sự phong phú, tốt tươi. Vào thời mà lãnh thổ nước Đại Việt chỉ kéo dài đến Nghệ An, Hà Tĩnh, Thành Đại La ở vị trí trung tâm của đất nước. Địa hình đa dạng có núi có sông, địa thế cao,mở ra bốn hướng nam, bắc, đông, tây rất thuận tiện. Vào thời đó, xem cả dải đất nước Đại Việt thì chỉ có mỗi nơi đây là thánh địa.
Kết thúc bài chiếu Lý Công Uẩn không dùng sức mạnh uy quyền để quyết định rời đô mà dùng một giọng như tham khảo ý kiến của nhân dân, bề tôi trung tín “Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?”. Đó như thể hiện sự dân chủ. Chiếu cầu hiền của vua Quang Trung không ai nghe, nhưng Chiếu dời đô của vua Lý Công Uẩn thì không ai không phục.

Chiếu dời đô của Lí Công uẩn là văn kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn, khai báo kinh đô mới của nước ta trong các thời đại phong kiến. Bài chiếu không chỉ có ý nghĩa về mặt lịch sử mà nó còn mang giá trị văn học, thể hiện một tâm hồn khoáng đại.
Có thể nói vua Lý Công Uẩn khá giỏi về siêu hình thời gian. Vua có tầm nhìn sâu xa, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên theo mệnh trời, dưới theo ý dân.
Thành Đại La đã khá quen thuộc đối với mỗi người dân Việt lúc đó, như thành Sài Gòn trong thế kỷ XX. Đại La được Cao Biền đời nhà Đường xây dựng vào thế kỉ thứ IX. Về nhân vật Cao Biền, cho đến nay vẫn còn tranh cãi. Cao Biền có câu trấn yểm: “Đồng Trụ chiết, Giao Chỉ diệt.”, ứng nghiệm cho Hà Nội.
Vị trí của Đại La ở vào nơi trung tâm của trời đất … đã đúng ngôi nam bắc đông tây. Địa thế đẹp, hùng vĩ, là thế rồng cuộn hổ ngồi, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi, rộng mà bằng phẳng; đất đai cao mà thoáng.
Phần cuối của bài Chiếu là lời bày tỏ của nhà vua trước quần thần về ý định dời đô, điều này cho thấy nhà vua rất công minh, đức độ trong việc trị nước. Việc dời đô của Lí Công Uẩn là một kì tích, kì công. Thành Hoa Lư năm xưa, văn hóa khó có thể phát triển được trong một kinh đô chật hẹp như thế. Chiếu dời đô là áng văn xuôi cổ độc đáo, đặc sắc của tổ tiên để lại. Ngôn từ trang trọng đúng như khẩu khí của bậc đế vương, khơi dậy lòng tự hào và ý chí tự cường mạnh mẽ.
Một áng văn chính luận đẹp đẽ, mang ý nghĩa nhân văn, văn học sâu sắc, vượt ra khỏi chức năng hành chính nhà nước thông thường. Chuyện dời đô từ xưa không còn là chuyện hiếm, mục đích cuối cùng cũng vì sự hưng thịnh của quốc gia, vào lúc đang dời thì phải dời. Tư duy của vua Lý Thái Tổ trong bài chiếu là một tư duy độc lập. Vế đối trong các câu rất chuẩn và đạt hiệu quả cao về mặt nghệ thuật.
Kinh thành Hoa Lư với núi non hiểm trở chỉ phù hợp trong thời chiến, hoang dã. Trong thời bình, cần một nơi có địa hình bằng phẳng, đất đai màu mỡ, giao thông thuận lợi để thúc đẩy giao lưu và buôn bán. Dời đô lúc này chính là hợp ý trời và thuận lòng dân.
Lý Công Uẩn đã chứng minh rằng Đại La xứng đáng là kinh đô của nước Việt muôn đời “Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: Ở vào nơi trung tâm trời đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi“.
Thành Đại La dưới góc nhìn và phân tích của nhà vua hiện lên là vị trí trung tâm của đất nước. Bộ máy hành chính cần được đặt ở trung tâm của đất nước. Đại La thích hợp cho yêu cầu này. Có thể rồng cuộn hổ ngồi, địa hình đa dạng, khoáng đạt, mở ra bốn hướng thuận tiện. Thành nằm ở trung tâm châu thổ sông Hồng, đất đai bằng phẳng, cao ráo, sáng sủa.
Cơ sở kinh nghiệm và thực trạng đương thời cho thấy phải dời đô. Nhà Lý dời đô, đặt hiệu mới, đất nước là Đại Việt (thay cho hiệu cũ là Đại Cồ Việt). Cho tới bây giờ tác phẩm vẫn chưa lỗi thời bởi kết cấu khoa học của nó.
Trong bài chiếu dời đô, Lý Công Uẩn khéo léo không chọc giận thiên triều Trung Hoa, tỏ ý rằng Đại Việt là một nước có quy chế tự trị nằm trong thiên triều Trung Hoa. Tiềm lực đất nước lúc đó còn yếu, nên vua Lý đã lấy việc làm của các triều đại cường quyền của Trung Hoa để noi gương. Chiếu gọi Đô hộ phủ Cao Biền là “Cao Vương”, gọi thành Đại La là “đô cũ”. Cao Biền, Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân (quan đô hộ Giao Châu, chức thái thú theo cách gọi trước) của nhà Đường vào khoảng các năm 864-868. Cao Biền đắp thêm thành Đại La vào khoảng năm 866. Lý Thái Tổ lấy việc làm của các triều đại cường quyền của Trung Hoa để noi gương. Ông gọi Đô hộ phủ Cao Biền là “Cao Vương”, gọi thành Đại La là “đô cũ”. Nghĩa là, tư tưởng kiến trúc của Cao Biền không phải tầm thường. Thành phố Hà Nội năm 2021 này cũng vậy, đã vỡ quy hoạch, đông đặc, nắng nóng, ngập lụt. Nói một cách khác, việc dời đô là một việc lớn, vừa hợp mệnh trời, vừa hợp lòng dân.
Về mặt văn chương, phần thứ hai của Chiếu dời đô có viết hàm súc, quy ra giấy in sách hôm nay thì chỉ độ 2 trang A4. Ngôn ngữ trong chiếu dễ hiểu, đến nỗi đứa ngu dốt nhất cũng hiểu được. Chiếu dời đô là tác phẩm lớn nhất trong giai đoạn văn học Việt Nam thời Lý, thế kỷ 11. Thiên đô chiếu là một áng văn kiện lịch sử có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đánh dấu một kỉ nguyên mới của nước Đại Việt.
Văn bản gốc.
Chiếu dời đô (chữ Hán).
Bản chữ Hán:昔商家至盤庚五遷。周室迨成王三徙。豈三代之數君徇于己私。妄自遷徙。以其圖大宅中。爲億萬世子孫之計。上謹天命。下因民志。苟有便輒改。故國祚延長。風俗富阜。而丁黎二家。乃徇己私。忽天命。罔蹈商周之迹。常安厥邑于茲。致世代弗長。算數短促。百姓耗損。萬物失宜。朕甚痛之。不得不徙。况高王故都大羅城。宅天地區域之中。得龍蟠虎踞之勢。正南北東西之位。便江山向背之宜。其地廣而坦平。厥土高而爽塏。民居蔑昏墊之困。萬物極繁阜之豐。遍覽越邦。斯爲勝地。誠四方輻輳之要会。爲萬世帝王之上都。朕欲因此地利以定厥居。卿等如何。
Bản phiên âm Hán-Việt:Tích Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên, Chu thất đãi Thành Vương tam tỉ. Khởi Tam Đại chi sổ quân tuẫn vu kỷ tư, vọng tự thiên tỉ. Dĩ kỳ đồ đại trạch trung, vi ức vạn thế tử tôn chi kế; thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí, cẩu hữu tiện triếp cải. Cố quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ. Nhi Đinh Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tư, hốt thiên mệnh, võng đạo Thương Chu chi tích, thường an quyết ấp vu tư, trí thế đại phất trường, toán số đoản xúc, bách tính hao tổn, vạn vật thất nghi. Trẫm thậm thống chi, bất đắc bất tỉ.Huống Cao Vương cố đô Đại La thành, trạch thiên địa khu vực chi trung; đắc long bàn hổ cứ chi thế. Chính Nam Bắc Đông Tây chi vị; tiện giang sơn hướng bối chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ cao nhi sảng khải. Dân cư miệt hôn điếm chi khốn; vạn vật cực phồn phụ chi phong. Biến lãm Việt bang, tư vi thắng địa. Thành tứ phương bức thấu chi yếu hội; vi vạn thế đế vương chi thượng đôTrẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư, khanh đẳng như hà?
Bản dịch tiếng Việt:Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh 5 lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương 3 lần dời đô, há phải các vua thời Tam Đại. ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà 2 nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.Huống chi thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?(Bản dịch của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993).
Bài viết đã được đưa vào sách Việt sử đại cương của tác giả Tôn Phi (tonphi2021@hotmail.com)
Tôn Phi là 1 triết lý gia thực thụ nói hay cày giỏi..Anh ghi nhận điều đó là có thật không thể bàn cải
ThíchThích